Thứ Hai, 16 tháng 1, 2012

SỰ TÍCH BÀI THƠ “CHỐNG THAM Ô, LÃNG PHÍ” CỦA NHÀ THƠ PHÙNG QUÁN

SỰ TÍCH BÀI THƠ “CHỐNG THAM Ô, LÃNG PHÍ” CỦA NHÀ THƠ PHÙNG QUÁN

LÊ GIA NINH
Phùng Quán 1955
Ngày 10 tháng 10 năm 1955, Hà Nội bừng lên niềm vui giải phóng. Thủ Đô ngập trong cờ, hoa, khẩu hiệu và nắng thu…Những chàng trai Hà Nội ngày “ra đi đầu không ngoãnh lại”(Nguyễn Đình Thi), trải qua ba ngàn ngày xông pha chiến trận nay trở về trong niềm hân hoan chào đón của bà con thủ đô.
    Sau những giờ phút thiêng liêng, hồ hởi, những xúc động tràn nước mắt là những ngày cam go, gian khổ. Nước cộng hòa trẻ tuổi phải đối đầu với biết bao thử thách. Tổ Quốc mới dành một nửa” nửa còn trong lửa nước sôi”( Tố Hửu). Ở miền Bắc,giặc Pháp sau khi cuốn gói để lại đói nghèo của bảy mươi năm đô hộ và chiến tranh xâm lược với ” những cánh đồng quê chảy máu, dây thép gai đâm nát trời chiều”( NĐT), những lô cốt, bông ke, bom mìn rình rập trong lòng đất…
  Trong lúc đó, Cải cách ruộng đất, cuộc cách mạng vô sản long trời lở đất như một tảng đá đè nặng lên miền Bắc.
   Miền Bắc phải gánh trên vai sứ mệnh lịch sử: Xây dưng miền Bắc và thống nhất nước nhà. ” Kế hoạch ba năm khôi phục kinh tế” làm dậy lên khí thế ra quân. Những cánh đồng hoang chằng chịt dây thép gai, cỏ dại, ngổn ngang đồn bốt, bong ke, chiến hào được khai hoang, phục hóa thay vào hai vụ chiêm mùa. Những nhà máy bị giặc Pháp tháo gở, đặt mìn phá hủy được công nhân dùng máu mình gìn giữ, bảo vệ, khôi phục sản xuất. Trường học đã vang lừng tiếng hát…
   Song, trong xã hội lúc bấy giờ đã xuất hiện những mảng tối, Nạn tham nhũng đã manh nha từ trong kháng chiến chống Pháp mà bản án cao nhất đối với một đại tá hậu cần và một thứ trưởng bộ nông nghiệp mà Bác Hồ phê chuẩn là một bằng cớ, nay có điều kiện “nẫy nòi sinh sôi” và trở thành ” quốc nạn” sau nầy. Phùng Quán lúc bấy giờ đã dự cảm:
” thói dối trá, đạo đức giả, tệ quan liêu, tham nhũng, tuy ngày đó chỉ mới manh nha, nhưng tôi đã dự cảm sẽ là hiểm họa khôn lường đang rình phục Nhân Dân tôi, Đảng tôi; có nguy cơ làm băng hoại những gì thiêng liêng cao quý mà cả triệu người suốt thế kỷ qua không tiếc máu xương để tạo dựng, bảo vệ…”(Khai từ-Trăng Hoàng cung- PQ).
 Đảng chủ trương đưa văn nghệ sĩ đi thực tế” ba cùng( cùng ăn, cùng ở, cùng làm) với nhân dân trong những ngày khôi phục kinh tế sôi động và cũng rất cam go ấy vừa để cải tạo tư tưởng vưà sáng tác phục vụ nhân dân.
Nhiều nhà văn đã tỏa đi khắp mọi miền đất nước từ Tây Bắc Điện Biên xa xôi đến hải đảo đêm ngày sóng bủa…Phùng Quán về với Kiến An, Hồng Quảng, Nam Định, Thanh Hóa…Những giọt nước mắt nóng hổi của người con miền Nam, người chiến sĩ và nhà văn trẻ thấm bờ vai sần sùi, chằng chịt vết sẹo của những anh hùng bị cực hình từ địa ngục Côn Đảo trở về. Phùng Quán đã hiến dâng đứa con tinh thần, tiểu thuyết Vượt Côn đảo cho những người anh hùng vượt ngục, vượt đại dương mà anh cảm mến và kính phục. Không ngủ yên trong thành công, Phùng Quán quyết” đã đi với nhân dân thì thơ không thể khác”. Anh đến Hồng Quảng, Kiến An, Nam Định…chứng kiến cảnh lúa, khoai, hoa màu bị luộc trong những cánh đồng ướp muối, đồng cảm trước” những bà mẹ già quấn dẻ rách, da đen như củ cháy giữa rừng”, hai bàn tay rớm máu khi mở dây thép gai và san bằng bông ke, lô cốt,công sự…Bữa ăn của họ toàn những dây khoai  gầy đét.
   Lệ thường, sau một ngày làm việc mệt nhọc, Phùng Quán lang thang với phố phường vừa đi, vừa ngẫm nghĩ như đếm từng bước. Anh đã chứng kiến những chị công nhân vệ sinh trong cơn mưa phùn gió bấc, rét như cắt da thịt, dưới ngọn đèn bảo le lói múc, gánh từng thùng phân từ những hầm xí bị hư hỏng.
   Ở Nam Đinh, nơi các anh thường đi qua, công trình đài xem lễ (lễ đài để làm lễ, mít tinh, có phòng hội họp) đang bỏ dở. Công trình đã ngốn xong mười một triệu bị rút ruột để dầm mưa,giải gió…Thuở ấy, lương chị công nhân đổ thùng xí là hai mươi bảy đồng  vừa đủ nuôi con. Nếu tính ra số tiền dầm mưa giải gió ấy có thể cứu hơn bốn vạn người ăn vỏ khoai trừ bữa ra khỏi cảnh đói nghèo.
    Đi thấy, về thấy, ” Đài xem lễ” như cái gai chọc vào mắt anh, biêm vào tim anh. Phùng Quán bần thần như người ốm đói. Đến cơ quan, anh cứ lặng lẽ, ít chào hỏi ai. Có người bảo: “Phùng Quán mới có một Vượt Côn Đảo, một số bài thơ mà đã khinh khỉnh rồi”.
     Khi thân nhau như anh em ruột, cùng sướng khổ, cùng chung hoạn nạn, anh mới kể cho tôi nghe về” cái đêm hôm ấy”.
    - Sau khi lang thang với phố phường về, minh mặc cái áo trấn thủ lính, đội mũ Vệ Quốc đoàn có ngôi sao sáng chói, đạt ống thuốc lào như khẩu bazoka hướng nồng về phía trước, chân gác lên thành ghế trong tư thế xung phong, tay cầm bút viết, viết, viết liên tục, từng chữ, từng câu như trào ra đầu ngọn bút…Ban đầu là những lời” ôn nghèo kể khổ”, rồi vang lên như một lời thề “Tôi quyết tâm rời bỏ…Tôi quyết đúc thơ thành đạn…”, rồi lao lên điểm xạ từng  tên: ” lớn, bé, nhỏ, to, cao, thấp, bé, gầy…”, rồi hô xung phong:   “Trung ương Đảng ơi! Lũ chuột mặt người chưa hết.Đảng cần một đội quân trừ diệt. Có tôi! Đi trong đội ngũ tiền phong.”- Anh cười hóm hỉnh- Mình là xạ thủ cấp kiện tướng trung đoàn mà. Viết xong, mình thiếp đi, tĩnh dậy trời đã sáng tự lúc nào.”
     Anh định gửi bài thơ Chống tham ô lãng phí cho báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng bởi trong bài thơ anh có viết:
                       ” Đến một ngày Đảng muốn phê bình tất cả
                          E phải nghìn số báo Nhân Dân! “
      Suy đi nghĩ lại thế nào anh lại gửi cho báo Giai phẩm Mùa thu( Nhân Văn, Giai phẩm Mùa đông, Giai phẩm Mùa thu là những tờ báo ở miền Bắc ra đời một thời gian  bị qui phản động đã chịu chung số phận cùng với người sinh ra và nhiều tác giả khác). Bài thơ ra đời đã gây xôn xao dư luận trong độc giả đặc biệt là trong giới học sinh, sinh viên, nhà giáo…Nhiều người thuộc từng câu, từng chữ.
     Trong ” Vụ án nhân văn”, bài thơ Chống tham ô lãng phí không bị đấu tố.
Có người có tật dật mình chỉ cay cú nói khéo: “Bài thơ bôi đen chế độ”. Chờ đến khi ” Lời mẹ dặn” ra đời (1957) khi nhà thơ đòi được ” làm nhà văn  chân thật. Chân thật trọn đời…”bài thơ mới chịu cùng chung số phận “bị lăng nhục” cùng tác giả.
     Khi tiếp quản bộ chỉ huy Sư đoàn 1 ngụy, lục trong đống hồ sơ lộn xộn của ban 2, tôi bắt gặp tờ báo Tranh đấu của học sinh, sinh viên chống Mỹ, trong đó có những bài: Cô gai sông Hương của Tố Hữu, Màu tím hoa sim của Hữu Mai, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Nhất định thắng của Trần Dần, Lời mẹ dặn và Chống tham ô lãng phí của Phùng Quán. Giáo viên và sinh viên ở đây thuộc từng câu, từng chữ bài thơ Chống tham ô lãng phí  của Phùng Quán. Hóa ra, ở ngoài Bắc, Phùng Quán ” quyết đúc thơ thành đạn. Bắn vào tim những kẻ làm càn. Vào lũ người tiêu máu của nhân dân như tiêu bạc giả”. Ở miền Nam, Thầy giáo và học sinh, sinh viên lấy đạn thơ anh để bắn vào tim giặc Mỹ xâm lược.
Năm mươi năm sau ngày bài thơ Chống tham ô lãng phí của Phùng Quán ra đời, nạn tham nhũng ” nẫy nòi như dòi bọ” và trở thành “quốc nạn”, quốc hội họp kỳ thứ 8, khóa 11 thông qua luật Chống tham nhũng sau một thời gian dài soạn thảo và thảo luận. Báo Thanh Niên dành một trang tuyên chiến với tham ô, lãng phí. Năm mươi năm trước, Phùng Quán  tuyên chiến với “quốc nạn tham nhũng” bị giáng trả những đòn chí mạnh,”đã trả giá cho Thơ bằng ba mươi năm tốt đẹp của đời mình(PQ).
        Năm mươi năm sau, ai sẽ trở thành Phùng Quán?
Tác giả gửi cho Quê choa
(Bài vở gửi đăng QC là chủ kiến riêng của tác giả, không hẳn là chủ kiến của QC)
   CHỐNG THAM Ô LÃNG PHÍ                   
                                         Phùng Quán
Tôi đã đi qua
Những xóm làng chiến tranh vừa chấm dứt
Tôi đã gặp
Những bà mẹ quấn giẻ rách
Da đen như củi cháy giữa rừng
Kéo dây thép gai tay máu ròng ròng
Bới đồn giăc, trồng ngô trỉa lúa…
 Tôi đã đi qua
Những xóm làng vùng Kiến An, Hồng Quảng
Nước biển dâng cao ướp muối cả cánh đồng
Hai mùa rồi, lúa không có một bông
Phân người toàn vỏ khoai tím đỏ,
Tôi đã gặp những em thơ còm cõi
Lên năm lên sáu tuổi đầu
Cơm thòm thèm độn cám và rau
Mới tháng ba đã ngóng mau đén Tết !
Để được ăn no có thịt
Một ngày…một ngày…

Tôi đã đi giữa Hà Nội
Những đêm mưa lất phất
Đường mùa đông nước nhọn tựa dao găm
Chị em công nhân đổ thùng
Run lẫy bẫy chui hầm xí tối
Vác những thùng phân…
Thuê một vạn một thùng
Mấy ai dám vác ?
Các chị suốt đêm quần quật
Sáng ngày vừa đủ nuôi con…
Một triệu bài thơ không nói hết nhọc nhằn
Của nhân dân lao động
Đang buộc bụng, thắt lưng để sống
Để dựng xây, kiến thiết nước nhà
Để yêu thương, nuôi nấng chúng ta
Vì lẽ đó
Tôi quyết tâm rời bỏ
Những vườn thơ đầy bướm đầy hoa
Những vần thơ trang kim vàng mã
         dán lên quân trang đẫm mồ hôi và
                                 máu tươi của Cách Mạng !
 Như công nhân
Tôi quyết đúc thơ thành đạn
Bắn vào tim những kẻ làm càn
Vào lũ người tiêu máu của dân
Như tiêu bạc giả !
Các đồng chí ơi !
Tôi không nói quá
Về Nam Định mà xem
“Đài xem lễ” họ cao hứng dựng lên
Nửa chừng bỏ dở
Mười một triệu đồng dầm mưa giãi gió
Mồ hôi máu đỏ mốc rêu
Những con chó sói quan liêu
Nhe răng cắn rứt thịt da cách mạng !
Nghe gió mùa đông thâu đêm suốt sáng
Nhớ” Đài xem lễ” tôi xót bao nhiêu
Đất nước đêm nay không đếm hết người nghèo
Thiếu cơm thiếu áo…
Bọn tham ô, lãng phí, quan liêu
Đãng đã phê bình trên báo
Còn  bao tên chưa ai biết ai hay ?
Lớn, bé, nhỏ, to, cao, thấp, béo, gầy…
Chúng nẩy nòi, sinh sôi như dòi bọ !
Khắp đất nước đâu đâu chẳng có !
Đến một ngày Đảng  muốn phê bình tất cả
E phải nghìn số báo Nhân Dân !
Tôi đã dự những phiên tòa xử tội
Những con chuột mặc áo quần bộ đội
Đục cơm khoét áo chúng ta
Ăn cắp máu dân đổi chác đồng hồ
Kim phút kim giờ lép gầy như bụng đói
Những mẹ già, em trai, chị gái…
Còng lưng rỏ máu lấn vành đai !
Trung ương Đảng ơi !
Lũ chuột mặt người chưa hết
Đảng cần lập một đội quân trừ diệt
Có tôi !
Đi trong hàng ngũ tiền phong.

Thứ Năm, 20 tháng 10, 2011

tôi yêu Giáng Bùi


Năm nào cũng vậy, mùa Đông về hắn thường hay nghe ngóng tin tức quê nhà. Bão lụt gần như đã trở thành “người bạn đồng hành” năm nào cũng “ghé thăm” giãi đất miền Trung. Riết rồi tạo nên trong hắn một thói quen hết sức…vô duyên: “… chờ tin bão lụt”.
Dạo này tin tức thiên tai ít nghe hơn trước, thay vào các chương trình radio Việt ngữ người ta thi nhau “bình loạn” chuyện bầu cử tổng thống Hoa Kỳ. Đôi khi rỉ rả một vài câu chuyện văn chương…
Bẵn đi một thời gian khá dài, cái tên Bùi Giáng gần như đã xoá sạch trong bộ nhớ của hắn; hôm nay lại hiện về. Người ta thay nhau ca ngợi Bùi Giáng là cây bút lớn, là thiên tài văn chương, nhà thơ cuối cùng thế kỷ 20, là…

chân dung nhà thơ BÙI GIÁNG

Khác với những gì người ta nói về Bùi Giáng, cái tên Bùi Giáng đến với hắn bằng tất cả những cảm giác rùng rợn và lo sợ… mỗi khi phạm phải một sai lầm. Bùi Giáng trong hắn đích thực là “Ông Ba Bị”, nhân vật đen đủi, gớm ghiếc với chiếc bị lớn trong tay chuyên bắt con nít bỏ bao, trong những câu chuyện răn đe của người lớn…
Năm bảy, tám tuổi gì đó, lần đầu tiên hắn “diện kiến” Bùi Giáng trong một lần tan học. Bùi Giáng mặc áo quần rách tả tơi, gầy đen, tay cầm một cây gậy quấn vải có cột vài chai lọ trên đó, và dĩ nhiên không cầm chiếc bị nào để bắt cóc con nít… Ông Ba Bị Bùi Giáng hiền hơn những gì hắn nghe người ta kể!
…Sau đó, hắn tham gia cùng lũ trẻ trong vùng “chơi trò Bùi Giáng”. Trò chơi vừa thích thú, vừa lo âu sợ hãi lạ lùng. Bọn trẻ thi nhau tìm đến gần Ông rồi bất chợt hô to: “Bùi Giáng…bán dùi, Bùi Giáng…bán dùi…” rồi xô nhau mà chạy… Không biết Ông có đuổi theo phía sau hay không, nhưng “chơi trò Bùi Giáng” quả là một điều thích thú của lũ trẻ ngày đó.
Thời gian sau, bọn trẻ không còn thấy hình bóng Bùi Giáng nữa. Đoạn đường từ cầu Diêu Trì đến Ngã Ba Phú Tài vắng bóng Ông. Người ta thay nhau truyền những “bản tin”, đại loại như: “Bùi Giáng do C.I.A cài lại, và đã được “bốc” đi Mỹ tháng trước…”, hoặc “Bùi Giáng đã được một nhóm người vượt biên “tóm cổ” lên một chiếc tàu ra đi từ cảng Quy Nhơn…để thông dịch”; .v.v. Nói chung, Bùi Giáng đã rời khỏi Quy Nhơn để… đi Mỹ.
Năm hắn khăn gói vào Sài Gòn thi đại học, tờ lịch treo tường trong phòng Thầy hắn có ghi hàng chữ:
“Ta vẫn tưởng đầu đường thương xó chợ,
… Ai đâu ngờ xó chợ cũng…chơi nhau…”
Hắn bật cười. Ý thơ ngộ nghĩnh thiệt, nhưng suy gẫm kỹ quả là chí lý. Hỏi ra mới biết thơ Bùi Giáng.
Những ngày sau đó, hắn tìm ra một sự thật: Bùi Giáng… không đi Mỹ như người ta đã “thổi tin đồn”. Bùi Giáng vẫn còn sống và sống rất mãnh liệt ngay trên mảnh đất Sài Gòn đầy náo nhiệt. Thỉnh thoảng, hắn nhìn thấy Bùi Giáng "làm cảnh sát giao thông" giữa cầu Trương Minh Giảng; có lúc Ông trú mưa dưới mái hiên Trung Tâm Ngoại Ngữ Đại Học Sư Phạm (Đại Học Vạn Hạnh trước 1975); đôi khi Ông đến thăm chư Tăng ni và các Thiền viện trong những câu chuyện kể của quý Thầy…
Bùi Giáng bụi bặm, gầy gò, nghêu ngao, tự tại giữa đất Sài Gòn!

Sài Gòn những năm cuối thập kỷ 1990, thỉnh thoảng diễn ra một vài “sự kiện báo chí” được ghi nhận “cầu vượt cung”…
Câu chuyện về cái chết của diễn viên Lê Công Tuấn Anh đã khiến giá báo tăng gấp ba bốn lần nhưng vẫn “hiếm hàng”; nhiều người còn “sáng kiến” photocopy những phóng sự điều tra, bản tin liên quan (từ những tờ báo in ra giấy A4) “phát hành” “đáp ứng nhu cầu độc giả”; sinh viên thức dậy thật sớm đến các điểm phát hành mua cho được tờ báo mới để đem vào lớp thay nhau “bình loạn”
Tin Bùi Giáng ra đi lại một lần nữa “chấn động” giới cầm bút. Lần này người ta không những chạy đi tìm mua các tờ báo in, mà gần như hiệu sách nào cũng được khách hàng hỏi: “Ở đây có thơ Bùi Giáng?”. Tin, tuỳ bút, phóng sự, truyện tự kể, bình luận, sách và thư pháp “Bùi Giáng” được người ta thi nhau phát hành, bày bán… Người ta thay nhau kể công, viết lách, phô trương trên những trang viết về những mối “thâm tình” cùng Bùi Giáng… khi nhục thân Ông được đưa từ Chùa Vĩnh Nghiêm đến nghĩa trang Gò Dưa - Thủ Đức; và mộ phần Ông chưa xanh cỏ…
Hắn cũng tìm riêng cho mình một bộ sưu tập Bùi Giáng nho nhỏ. Những lúc rảnh rổi, hắn vừa đọc, vừa giận, vừa thích thú, vừa chua xót… rồi lầm bầm một mình: “Ước gì một phần nhỏ lợi tức thu được từ những cuốn sách, tờ báo này… đủ để cho Bùi Giáng một bữa no, một manh áo mới!”
Mà cũng ngộ thiệt, Bùi Giáng - một người mà người ta cho là “bệnh tâm thần” - có đòi gì đâu? Ông tự tại rong chơi đến “đã đời”… không một xu dính túi.
“…Sài Gòn Chợ Lớn rong chơi,
Đi lên, đi xuống đã đời du côn…” (Bùi Giáng)
Xét cho cùng Ông chẳng hề "du côn" chút nào! Phần "du côn" Ông đã "khiêm tốn" "nhường lại" kẻ khác...

Bùi Giáng vào cõi vô tận một ngày mùa Đông năm 1998, Sài Gòn lất phất những hạt mưa buồn. Mười năm sau đó, ở một nơi xa xăm, âm thầm thắp nén hương vọng hướng về Ông, hắn lặng lẽ cúi đầu tạ lỗi “trò chơi mất dạy… bán dùi” ngày xưa.
Với hắn, Bùi Giáng tuy rách nát, gầy gò thân xác nhưng tâm hồn của Ông trong sạch, mãnh liệt vô cùng!


 mộ phần Thi sĩ Bùi Giáng tại nghĩa trang Gò Dưa - Thủ Đức

Thứ Tư, 19 tháng 10, 2011

Không Đề.

Đường vắng mưa bụi hoa tóc em
Lẫn mùi hương cỏ hoa trong gió
Thơ thẫn đường quê nhớ bóng người
Hàng cau lặng gió buồn không ngủ.

20/10/2011 thương vợ3

Lưu Quang Vũ
THƠ VIẾT CHO QUỲNH TRÊN MÁY BAY
Có phải vì mười lăm năm yêu anh
Trái tim em đã mệt
Cô gái bướng bỉnh
Cô gái hay cười ngày xưa
Mẹ của các con anh
Một tháng nay nằm viện
Chiếc giường trắng vách tường cũng trắng
Một mình em với giấc ngủ chập chờn
Thương trái tim nhiều vất vả lo buồn
Trái tim lỡ yêu người trai phiêu bạt
Luôn mắc nợ những chuyến đi những giấc mơ điên rồ những ngọn lửa không có thật
Vẫn là gã trai nông nổi của em
Người chồng đoảng của em
15 mùa hè chói lọi 15 mùa đông dài
Người yêu ơi
Có nhịp tim nào buồn khổ vì anh
Thôi đừng buồn nữa đừng lo phiền
Rồi em sẽ khỏe lên
Em phải khoẻ lên
Bởi ta còn rất nhiều dặm đường phải đi
Nhiều việc phải làm nhiều biển xa phải tới
Mùa hè náo động dưới kia
Tiếng ve trong vườn nắng
Và sau đê sông Hồng nước lớn
Đỏ phập phồng như một trái tim đau
Từ nơi xa anh vội về với em
Chiếc máy bay bay dọc sông Hồng
Hà Nội sau những đám mây
Anh dõi tìm đâu giữa chấm xanh nào
Có căn phòng bệnh viện nơi em ở

Trái tim anh trong ngực em rồi đó
Hãy giữ gìn cho anh
Đêm hãy mơ những giấc mơ lành
Ngày yên tĩnh như anh luôn ở cạnh
Ta chỉ mới bắt đầu những ngày đẹp nhất
Vở kịch lớn bài thơ hay nhất
Dành cho em chưa kịp viết tặng em
Tấm màn nhung đỏ thắm
Mới bắt đầu kéo lên
Những ngọn nến lung linh quanh giá nhạc
Bao nỗi khổ niềm yêu thành tiếng hát
Trái tim hãy vì anh mà khoẻ mạnh
Trái tim của mùa hè tổ ấm chở che anh
7/5/1988

Thuận Hữu
NHỮNG PHÚT XAO LÒNG
Có thể vợ mình xưa cũng có một người yêu
(Người ấy gọi vợ mình là người yêu cũ)
Cũng như mình thôi, mình ngày xưa cũng thế
Yêu một cô, giờ cô ấy đã lấy chồng
Có thể vợ mình vì những phút mềm lòng
Nên giấu kín những suy tư, không kể về giấc mộng
Người yêu cũ vợ mình có những điều mình không có được
Cô ấy không nói ra vì sợ mình buồn
Mình cũng có những phút giây cảm thấy xao lòng
Khi gặp người yêu xưa với những điều vợ mình không có được
Nghĩ về cái đã qua nhiều khi nuối tiếc
Mình cũng chẳng nói ra vì sợ vợ buồn
Sau những lần nghĩ đâu đâu mình thương vợ mình hơn
Và cảm thấy mình như người có lỗi
(Chắc vợ mình hiểu điều mình không nói
Cô ấy cũng thương yêu và chăm chút mình hơn)
Mà có trách chi những phút xao lòng
Ai cũng có một thời để yêu và một thời để nhớ
Ai cũng có những phút giây ngoài chồng ngoài vợ
Đừng có trách chi những phút xao lòng…

20/11/2011 thương vợ 2

Khương Hữu Dụng

NHỚ

Em luôn miệng cằn nhằn
Kêu mưa rồi trách nắng
Ước gì em đi vắng
Ðược một ngày yên thân

Em vĩnh viễn ra đi
Mênh mông nhà lạnh vắng
Ước gì nghe em mắng
Vui tiếng em cằn nhằn

Nguyễn Khoa Điềm

CÓ MỘT NGÀY
Có một ngày em không yêu anh
Em đi thật xa
Và mặc chiếc áo
Anh chưa từng thấy bao giờ
Em sẽ có cái cười
Bằng ánh sáng của cái hôn khác
Có nỗi buồn
Bằng mùa mưa khác
Những buồn vui anh không có được bao giờ…
Em tràn đầy hạnh phúc
Ngày em không yêu anh
Ngày em rời mái nhà xưa cũ ấy
Và chiếc áo sờn vai ấy
Anh từng hôn lên nỗi khó nhọc hàng ngày
Em xóa mình đi
Bằng chiếc khăn màu thơm ngát
Cái ngày đó
Anh sẽ bắt đầu
Với anh
Bằng bước chân ngày đón em
Anh một chàng trai
Với màu tóc khác
Riêng năm tháng cuộc đời
Thì vẫn như xưa…

Nguyễn Duy

VỢ ƠI
    Khi trong túi có mấy đồng ngọ nguậy
    Ta chạy rông như gì nhỉ - quên đời
    Lúc xơ xác bờm xơm từng sợi tóc
    Đói lả mò về
                       Cơm đâu
                                     Vợ ơi…
    Và tao tác bạn bè cơn hoạn nạn
    Đòn du côn tóe máu tâm hồn

    Và tung tóe cả bướm vàng bướm trắng
    Móc họng mửa ra cầu vồng bảy sắc
              Vợ dìu ta
                    Từng bậc
                          Thang mòn
Đêm huyền ảo một kinh kỳ se lạnh
Một mình ta cô quạnh giữa muôn người
Mặt sông lạ gợn nếp nhăn đuôi mắt
Bủn rủn buồn
                    Ta thầm kêu
                                    Vợ ơi…
        (Praha,7-1990 – Hà Nội,12-1990)

20/10/2011 thương vợ 1 .

Tú Xương
THƯƠNG VỢ

Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Một duyên hai nợ âu đành phần
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.

Hữu Loan

MÀU TÍM HOA SIM

Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chàng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh.
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh từ chiến trường Đông Bắc
Biết tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về cỏ vàng chân mộ chí.
Chiều hành quân
Qua những đồi sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
nhìn áo rách vai
Tôi hát
trong màu hoa
(áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh đã mất, mẹ già chưa khâu...)

Thứ Hai, 10 tháng 10, 2011

Em...

Em đi
bỏ lại con đường
Bờ xa diệu vợi con đuờng
anh di
Mùa thu hoa mận rơi nhiều
Chim bay về núi là vào ngủ đông
Anh đi
Giữa buổiỉ chiều buồn
Mưa bay qua mắt trong lòng
Vấn vương....!
                                    20/10/2011